Nội dung vụ việc: Nguyên đơn bà Lê Thị X cho rằng cha ruột là ông Lê M (SN 1911, chết năm 1969), mẹ ruột bà Nguyễn Thị D (SN 1915, chết năm 2011), ông M và bà D sinh được 03 người con, gồm: Ông Lê Văn H (chết năm 1973), ông H có 01 con trai duy nhất là Lê Văn Th; ông Lê Thanh Ngh (67 tuổi); bà Lê Thị X (64 tuổi). ông M và bà D có 01 thửa đất vườn mang số hiệu 242, thuộc tờ bản đồ số 12 xã T có diện tích 1490m2, đã được nhà nước cấp Giấy CNQSD đất mang tên bà Nguyễn Thị D và 01 căn nhà cấp 4. Nguyên đơn yêu cầu: Chia di sản thừa kế là thửa đất 242 làm 03 phần cho 03 người con, không yêu cầu chia nhà. Đối với phần di sản bà được nhận thừa kế, bà tự nguyện cho cháu Lê Thanh Q (con ông Ngh) diện tích 50m2, cháu Q chịu án phí đối với phần đất của bà cho.
Bản án dân sự sơ thẩm số 45/2021/DS-ST ngày 27/9/2021 của TAND huyện S tuyên xử: Giao cho bà Lê Thị X được quyền quản lý, sử dụng diện tích 346m
2, trong đó 100m
2 đất ở tại nông thôn và 246m
2 đất trồng cây hàng năm khác; gắn liền trên đất có 01 chuồng bò diện tích xây dựng 16m
2 ; tường rào lưới B40 phía trước thửa đất dài 15,07m; 06 cây cau con; 02 cây xà cừ; 02 cây mít, Giao cho anh Lê Văn Th được quyền quản lý, sử dụng diện tích 346m
2, trong đó 100m
2 đất ở tại nông thôn và 246m
2 đất trồng cây hàng năm khác; gắn liền trên đất có 01 chuồng bò diện tích xây dựng 47,8m
2; tường rào lưới B40 phía trước thửa đất dài 11,71m; 20 cây cau con; 41 cây hồ tiêu chưa có quả,Giao cho ông Lê Thanh Ngh được quyền quản lý, sử dụng diện tích 782,2m
2, trong đó 200m
2 đất ở tại nông thôn và 582,2m
2 đất trồng cây hàng năm khác, được chia làm 02 phần: Phần thứ nhất diện tích 130m
2, trong đó 100m
2 đất ở, 30m
2 đất trồng cây hàng năm khác; gắn liền với ngôi nhà cấp 4 và 01 cây sapoche. Phần thứ hai: Diện tích 652,2m
2, trong đó có 100m
2 đất ở và 552,2m
2 đất trồng cây hằng năm khác, Giao cho anh Lê Thanh Q được quyền quản lý, sử dụng diện tích 100m
2 đất trồng cây, Ngoài ra bản án tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo.
Bản án phúc thẩm số 09/2022/DS-PT ngày 31/3/2022 của TAND tỉnh Quảng Ngãi: Căn cứ vào khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 của BLTTDS năm 2015, tuyên xử: Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 45/2021/DS-ST ngày 27/9/2021 của TAND huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện S để xem xét, giải quyết lại vụ án.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:- Theo Giấy CNQSD đất đối với thửa 242 tờ bản đồ số 12 xã T có diện tích 1.470m
2 (trong đó: đất ở tại nông thôn 400m
2, đất trồng cây hằng năm khác là 1.090m
2), diện tích đo đạc thực tế là 1.547,2m
2,. cấp sơ thẩm lại định giá chung 01 loại đất ở đối với toàn bộ diện tích của thửa đất 242 (giá đất ở tại nông thôn 150.000đ/m
2 x 1.547,2m
2 ). Với việc định giá 100% đất ở đã dẫn đến việc tính giá trị đất, giá trị tài sản được hưởng và án phí phải chịu của các đương sự không chính xác.
- Cấp sơ thẩm xem xét thẩm định tại chỗ chưa chính xác: Cấp phúc thẩm xem xét lại thì trên phần đất giao cho bà X, ông Th có 51 lồng mứt, 07 cây bơ, 01 cây ổi, nhưng cấp sơ thẩm xem xét không có, nên chưa định giá các cây này, và cũng không giao cho người nào quản lý, sử dụng. Cấp sơ thẩm tuyên giao 01 số cây gắn liền với đất cho người hưởng di sản thừa kế nhưng khi cấp phúc thẩm xem xét thẩm định lại thì không có các cây này (02 cây xà cừ, 01 cây mít, 01 cây sapoche, 01 cây sầu đông). Bị đơn xác định cây sầu đông là của gia đình bà Nguyễn Thị L chủ sử dụng thửa đất giáp ranh với thửa 242 nhưng cấp sơ thẩm đem chia cây xà cừ cho bà Lê Thị X là không đúng.
- Tại cấp sơ thẩm bị đơn đã trình bày bị đơn có di dời 04 mồ mả trên thửa đất 242, nhưng cấp sơ thẩm không giải thích hoặc thông báo cho bị đơn có yêu cầu phản tố hay không. Tại cấp phúc thẩm, bị đơn có đơn yêu cầu giải quyết tiền công, chi phí di dời mã là 30.000.000đ, việc bị đơn di dời mồ mả là có thật, được nguyên đơn thừa nhận, do đó cần xem xét chi phí này cho bị đơn. Cấp sơ thẩm không xem xét và tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự cũng không thỏa thuận được. Cấp phúc thẩm không có cơ sở để giải quyết.
- Tại cấp sơ thẩm, anh Lê Văn Q cho rằng bà nội anh là cụ Nguyễn Thị D đã cho anh chỗ ở hiện giờ, anh đã ở và trồng trọt, chăn nuôi trên diện tích đất được cho. Lúc cụ D cho anh thì không viết giấy tờ, nhưng có sự nhất trí của cụ D và cô Lê Thị X. Cấp sơ thẩm không giải thích hoặc thông báo cho anh Q về việc có yêu cầu độc lập không, để xem xét diện tích đất trên đó có nhà của anh Q được cụ D cho khi cụ D còn sống là không đảm bảo.
Trên thửa đất 242 có 02 ngôi mộ nổi có diện tích 18m
2, cấp sơ thẩm chưa làm việc với những người hiện nay đang trông coi 02 ngôi mộ để biết họ có đồng ý di dời hay không, nhưng lại chia thừa kế đối với diện tích 18m
2 này là không đúng quy định về đất đai, đồng thời làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người nhận thừa kế khi được chia phần đất có 02 ngôi mộ này.
Bản án sơ thẩm tuyên
Giao cho anh Lê Văn Th được quyền quản lý, sử dụng diện tích 346m2, trong đó 100m2 đất ở tại nông thôn và 246m2 đất trồng cây hàng năm khác; gắn liền trên đất có 01 chuồng bò diện tích xây dựng 47,8m2…. Theo Bản đồ địa chính trích đo hiện trạng khi xem xét thẩm định và Sơ đồ phân chia thừa kế thì thể hiện trên phần đất giao cho anh Th có 01 chuồng bò diện tích xây dựng 31,8m
2, không phải chuồng bò 47,8m
2. Việc bản án sơ thẩm tuyên không chính xác, dẫn đến khó thi hành án; việc tăng diện tích chuồng bò đã làm tăng giá trị tài sản, dẫn đến án phí anh Th phải chịu và số tiền anh Th phải trả cho ông không chính xác.
Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm gửi đến VKS cấp huyện nghiên cứu rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự trong thời gian đến.
Nguyễn Cường - Phòng 9